Tưởng nhớ về Tổng thống Arafat - Vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Palestine
Saadi Salama - Đại sứ Nhà nước Palestine tai Việt Nam
Được quay lại công tác tại Việt Nam - nơi ghi dấu ấn đặc biệt đối với tôi, nơi lần đầu tiên tôi gặp Người cách đây 30 năm, ngày tôi còn đang theo học ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tức vài ngày sau vụ ám sát nguyên Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat ở Cairo của những kẻ Hồi giáo cực đoan và vụ ám sát người anh em cùng kề vai sát cánh với Người - Majed Abo Sharar, ủy viên Bộ Chính trị của Tổ chức phong trào giải phóng Palestine (Fatah) của lực lượng tình báo Israel “Mosad” ở Rome, tôi đã nhận ra rằng ai đó có thể không đồng ý kiến với Người, nhưng chẳng ai có thể phủ nhận những sự thực về Người – Tổng thống Yasser Arafat.
Kể từ đó, tôi đã từng được tham gia một số chuyến thăm Việt Nam của Người và tôi cũng nhận thấy được tình cảm của Người đối với nhân dân Việt Nam, một thứ tình cảm thiêng liêng, một người bạn gần gũi, Người luôn khâm phục tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân Việt Nam, luôn coi Việt Nam là một tấm gương để nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình nói chung và nhân dân Palestine nói riêng noi theo.
Người là một vị cha của dân tộc Palestine, một con người luôn chăm lo cho nhân dân, một chiến sĩ hết mình vì tự do, một sứ giả của hòa bình, một nhà lãnh đạo đầy lòng kiên định. Người đứng trên mảnh đất quê hương, một tay giữ chặt nhành ô liu, tay kia nắm chắc cây súng của các chiến sĩ để bảo vệ tự do cho dân tộc mình.
Đã tròn bảy năm kể từ ngày Người ra đi, để lại một đất nước của những người con Palestine vẫn chưa được công nhận là công dân, côi cút, cô đơn mà Người đã đại diện và thúc đẩy sự nghiệp chính nghĩa của họ hơn ai hết. Trước lúc Người ra đi đến cõi vĩnh hằng, một phóng viên đã hỏi Người về thành tựu vĩ đại nhất của đất nước Palestine, Người nở một nụ cười quen thuộc trên khuôn mặt và đáp rằng: “Chúng tôi đã đưa sự nghiệp của Palestine trở thành vấn đề lớn nhất trên thế giới. 107 năm sau Hội nghị Basel, 90 năm sau Hiệp ước Sykes Picot, Israel vẫn chẳng thể làm chúng tôi nhụt chí. Chúng tôi ở đây, tại đất nước Palestine này, sẵn sàng đối diện với họ. Chúng tôi không phải là những người dân da đỏ”.
Bảy năm sau ngày Người qua đời, “vấn đề" Palestine vẫn là một trong những vấn đề lớn nhất của thế giới, và mặc dù hy vọng về một nhà nước độc lập ở Bờ Tây và dải Gaza với Đông Jerusalem là thủ đô chưa đạt được, nhưng người dân Palestine chúng tôi luôn coi Abu Ammar (bí danh của Tổng thống Arafat) là người đã góp công thắp lên niềm hy vọng ấy. Chắc có lẽ ai nấy đều tưởng nhớ đến Người như một vị cha của dân tộc Palestine, và trên khắp thế giới, những bài tiểu sử viết và phản ánh về cái chết của Người đều nhắc đến Người, nói một cách chính xác, là “Ngài Palestine”. Quả đúng vậy, cho dù chúng tôi, những người dân Palestine, hôm nay còn mâu thuẫn về một số quyết định quan trọng mà Người đã đưa ra (ở Amman, ở Beirut, ở Algiers, ở Oslo, ở Gaza, ở Trại David, và cuối cùng, ở Ramalah), và về phong cách và phương pháp lãnh đạo của Người, nhưng hầu như ai cũng có một suy nghĩ chung về vấn đề di sản mà Người để lại: hãy hỏi bất cứ người dân Palestine nào trên đường phố, hay bất kỳ con đường nào trên thế giới, sẽ được trả lời không chút do dự, rằng Abu Ammar chính là người đã đưa vấn đề Palestine trước đây chỉ là chuyện cung cấp cứu trợ nhân đạo dành cho người tị nạn và ly tán bởi chiến tranh trở thành cuộc đấu tranh chính trị lâu dài của đất nước chiến đấu vì tự do và xứng đáng được hưởng quyền tự chủ trên cả nước.
Người cũng sẽ được kể rằng, Người đã đoàn kết cộng đồng Palestine tị nạn bị chia rẽ; rằng Người đã làm thay đổi PLO (tổ chức được thành lập bởi các nhà nước Ả-rập để kiềm chế và kiểm soát các nhóm chính trị Palestine) thành một tổ chức bảo vệ cho chủ nghĩa dân tộc của người Palestine, rằng Người đã được người dân Palestine trao quyền đại diện cho họ tại tòa án công luận quốc tế, và trên hết, thông qua nhiều biện pháp vô cùng độc đáo, Người đã giành được chính nghĩa quốc tế cho sự nghiệp lâu dài của mình.
Hôm nay, không có gì là khó hiểu khi Người được sự yêu mến đến vậy, không chỉ của người dân Palestine, mà còn của quần chúng Ả-rập và thế giới nói chung. Người là một nhà lãnh đạo nhân dân theo đúng nghĩa nhất của thế giới, người luôn chứng tỏ rằng mặc dù có chút chuyên chế cực đoan trong hệ thống chính trị, nhưng có một sự nhạy cảm tinh tế đối với tâm trạng và cảm xúc của người dân nước mình. Chiếc khăn đen-trắng của người nông dân (Người đội để luôn nghi nhớ cuộc cách mạng đầu tiên của nông dân Palestine chống lại chế độ thực dân Anh và những kẻ phục quốc giữa những năm 1930), bộ quần áo quân đội sờn rách mà Người tuyên bố sẽ chỉ cởi bỏ khi Palestine được tự do; những bữa ăn giản dị và lối sống thanh đạm; những cái thơm má, những cái vẫy tay, những cái ôm chặt, những cái bắt tay với quần chúng - tất cả những nét đặc biệt ấy làm nên một nhân cách con người vĩ đại mặc dù các bài diễn văn trước công chúng của Người vẫn chưa thật hấp dẫn.
Hàng nghìn người dân Palestine bất chấp các trạm kiểm soát quân sự chiếm đóng và đẩy lùi những hàng rào cấm đi lại của Israel đã đổ xô đến trụ sở của Người để gửi tới Người lời tạm biệt - một cảm xúc hiếm thấy trong thế giới Ả-rập kể từ sau cái chết của Tổng thống Ai cập Nasser - là minh chứng hùng hồn hơn bất kỳ một bài báo hay ghi chép học thuật nào về giá trị của cuộc sống của con người.
Tuy nhiên, bảy năm sau ngày Người ra đi, không biết liệu giấc mơ về một nhà nước Palestine đã tiến gần hơn đến thực tế so với nhiều năm trước đó, khi Người lần đầu tiên xuất hiện tại Liên hợp quốc (năm 1974) và tuyên bố rằng Người sẽ thuyết phục cộng đồng quốc tế bằng “một tay khẩu súng và một tay nhành ô liu’, và kêu gọi mọi người đừng để “nhành ô liu rơi”.
Trong khi những nhà bình luận trên thế giới đã dự báo sự ra đi của Người, và ngài Mahmoud Abbas (Abu Mazen) - là người tiếp tục sự nghiệp của anh trai mình, sẽ mở ra một giai đoạn hòa bình mới và nhanh chóng dẫn đến việc thành lập nhà nước Palestine, nhưng hiện thực ở vùng đất này hôm nay không khỏi khiến người ta nản chí. Chính phủ Israel lại một lần nữa tuyên bố họ không có “đối tác vì hòa bình” trong khi tiếp tục duy trì với vô số những chính sách - mở rộng khu định cư, phân biệt chủng tộc, tịch thu tài sản, phân làn đường, dựng tường rào ngăn cách, trạm kiểm soát, xâm phạm, giết người, đập phá nhà cửa - tưởng như muốn phá hủy ngay cả những hy vọng nhỏ nhoi nhất, về một nhà nước Palestine độc lập, không chiếm đóng.
Tròn bảy năm kể từ ngày Người qua đời, nhân dân Palestine vẫn không biết người cha già của dân tộc đã chết như thế nào, họ không biết họ sẽ phải sống ra sao. Tổng thống Arafat, cầu mong cho linh hồn của Người được yên nghỉ. Nhân dân Palestine sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh chính nghĩa để đạt được ước nguyện của Người. Chúng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng chúng ta sẽ được hưởng độc lập, tự do và chúng ta sẽ tham gia cộng đồng quốc tế, xây dựng hòa bình lâu dài và tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ con cháu chúng ta.
Tổng thống Arafat! Tôi vô cùng thương nhớ Người. Truyền thuyết về Người sẽ sống mãi, hình ảnh của Người đã, đang và sẽ khắc sâu trong trái tim tôi cũng như trái tim của những người yêu chuộng hòa bình, trong đó có các bạn Việt Nam gần gũi và thân thiện, lịch sử nhân loại sẽ ghi tên Người như một trong những con người vĩ đại nhất của thế giới.